Di tích lịch sử cấp tỉnh Chùa Thiên Trúc- thôn Cổ Nông- xã Bình Minh
Chùa Cổ Nông ngoài thờ Phật, còn thờ
Đức Thánh tổ, thiền sư Bùi Huệ Tộ (1566-1641) một vị chân tu đã suốt đời vì đạo
pháp dân tộc, vì cuộc sống bình yên, no ấm của nhân dân. Căn cứ vào cuốn Kệ hiện
lưu giữ tại chùa Cổ Gia, xã Nam Hùng, sách Từ điển Phật học và
đặc biệt là tác phẩm Thánh tổ thực lục do Đốc học trấn Sơn Nam
Đoàn Khiết Phủ soạn vào niên hiệu Minh Mệnh thứ nhất (1820) lưu giữ tại Đền Am
thì Thiền sư Bùi Huệ Tộ sinh ngày 10 tháng Giêng năm 1566, đời vua Lê Anh Tông,
tại thôn Tô, xã Chân Đàm, nay là thôn Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực,
tỉnh Nam Định.
Ông
sinh ra trong một gia đình nề nếp, giàu truyền thống hiếu học. Thân phụ ông là
Bùi Nhất Lang, hiệu là Phúc An và thân mẫu là Nguyễn Nhất Nương, hiệu là Thục
Tiết. Được cha mẹ nuôi dạy và cho ăn học tới tuổi trưởng thành, Bùi Huệ Tộ đã
hai lần lập gia đình nhưng cả hai bà vợ đều qua đời sớm do lâm bệnh hiểm nghèo.
Trước xã hội rối ren bởi sự tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến,
thấy cuộc đời nhiều nỗi éo le, trắc trở, năm 32 tuổi, Bùi Huệ Tộ đã chọn con
đường xuất gia tu hành. Qua nhiều năm tu hành, ông đã giác ngộ và tìm thấy chân
lý của đạo Phật là cứu nhân độ thế.
Nguồn
tư liệu lịch sử cùng truyền thuyết lưu truyền trong dân gian còn cho biết,
trong quá trình tu hành, tìm hiểu và giác ngộ đạo Phật, Thiền sư Bùi Huệ Tộ kế
thừa và phát triển tác phẩm Khóa hư lục của Vua Trần
Thái Tông (1218 - 1276) thành Kế hư lục. Đây là bộ sách khá
đồ sộ, gồm 40 chương, nội dung sách nhằm tuyên truyền những tư tưởng tích cực
của đạo Phật về độc lập, thống nhất, sắc thái riêng của Phật giáo Thiền Tông
Việt Nam. Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ đó, Thiền sư Bùi Huệ Tộ đã hướng con
người tu hành và truyền đạo của mình theo con đường dân tộc gắn với đạo pháp.
Cùng
với việc truyền đạo, Thiền sư Bùi Huệ Tộ còn có công xây dựng và trụ trì 18
ngôi chùa thuộc khu vực huyện Nam Trực như chùa Tiên Độ (Đồng Côi, Nam Giang),
chùa Sùng Đức (Bái Trạch, Nghĩa An), chùa Hinh Lan (Thanh Khê, Nam Cường), chùa
Già Độ (Cổ Ra, Nam Hùng), chùa Thiên Bảo (Thọ Tung, Nam Hùng), chùa Thùy Hồng
(thôn Đầm, Nam Dương)… và xa hơn nữa là chùa Đông Hồ, Non Nước (thành phố Ninh
Bình, tỉnh Ninh Bình). Ở những nơi này, Thiền sư đã giành nhiều tâm huyết để
vận động nhân dân địa phương và thập phương tín đạo sửa sang cảnh chùa; bỏ tiền
để mua ruộng, chuộc nhà và đồ đạc cho dân nghèo đã bán trước đó, giúp họ làm
ăn, sinh sống. Tại Đền Am còn nhiều câu đối khẳng định công lao của ông, lòng
biết ơn của nhân dân trong vùng đối với một nhà sư suốt đời vì đạo, vì dân.
"Thần thông quýnh xuất tam thiên giới
Linh sảng nhưng truyền thập bát am"
Nghĩa
là: "Thần thánh hơn cả các vị trong ba ngàn thế giới, sự linh thiêng của
ngài còn truyền lại ở mười tám am".
"Lê triều tam bách tài chí kim đán Việt Phương lưu Tô trừ Bắc,
Cổ Xát thập bát hương phụng sự từ vân phổ biếu cõi giang Nam"
Nghĩa
là:
“ Ba
trăm năm trước thời Lê, cho đến nay, đức thánh che chở, tiếng thơm để lại thấm
nhuần sông Tô nơi đất Bắc.
Xây
dựng 18 ngôi chùa cổ, dân làng phụng thờ thần mây lành phủ khắp, cỏ cây tươi
tốt nhờ được nước bể Nam”.
Ngày
10 tháng giêng năm Tân Tỵ (1641), niên hiệu Dương Hòa, đời vua Lê Thần Tông,
khi ông đã 76 tuổi, ngài cho xếp củi đầu làng Cổ Tung rồi tự thiêu trước sự
chứng kiến của người dân địa phương đối với một vị chân tu. Chỗ Thiền sư tự
thiêu, tục gọi là gò Thánh hóa.
Thiền
sư Bùi Huệ Tộ được Phật giáo suy tôn là Bồ tát, Đạo giáo suy tôn là Thánh tổ và
những nơi ngài đến trụ trì đều được nhân dân tôn làm phúc thần. Tập Kệ chép
lại thân thế, sự nghiệp của Thiền sư, trong đó có đoạn viết:
"Uy đức cao siêu pháp giới tôn
Viên dong phổ chiếu mãn càn khôn
Chứng minh công đức chuân cần ý
Già độ nghiêm nghiêm vạn cổ tồn"
Nghĩa là:
“Uy đức hơn cả các vị tôn kính trong hàng ngũ các sư
Ngài trở thành con người tròn trặn nhất trong khoảng trời đất
Công đức thể hiện rõ rệt ra ở việc cần, kiệm thường ngày
Nơi cảnh chùa trang nghiêm tiếng tăm còn mãi”
Sau
khi Thiền sư hóa đàn tại Cổ Tung, để ghi nhớ công đức, ở những nơi người đến
trụ trì được nhân dân tôn thờ làm Phúc thần. Hiện nay tại chùa Cổ Nông còn treo
bức đại tự đề 3 chữ Hán có nội dung: “Phật nhi thần” (vừa là Phật vừa là thần).
Nhân dân làng Cổ Nông quen gọi người là Đức thánh tu, Đức thánh hóa. Đã từ lâu,
ở chùa Cổ Nông và những ngôi chùa Thiền sư trụ trì, nhân dân đều tạc tượng để
phụng thờ rất trang nghiêm. Chùa Cổ Nông đúc tượng đức Thiền sư bằng đồng ngồi
trên bệ cao cùng bài vị khắc dòng chữ Hán có nội dung “Đại thánh linh
ứng kiêm hòa thượng Thiền sư tỷ khưu tăng tự Huệ tộ, đặc tặng anh uy hiển liệt
đại Bồ tát”. Tại di tích còn lưu gữa được 4 đạo sắc phong có niên hiệu
từ năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) đến năm Khải Định thứ 9 (1924) với nội dung ca
ngợi công lao của Thiền sư đối với quê hương, đất nước.
Sắc
phong ngày 26 tháng 7 năm 1783 niên hiệu Cảnh Hưng 44 có ghi:
Phiên âm:
“
Sắc đại thánh linh ứng kiêm hòa thượng thiền sư tỷ khưu tăng tự Huệ Tộ đặc tặng
anh uy hiển liệt đại bồ tát sơn nhạc chư anh hải hà phiên dị. Huân cao thê bẩm
nhị khí chi lương năng chính trực thông minh dư bách thần tây tịnh liệt khắc
tưởng ký chương huyền huống vinh bao hà đoạn di chương vi tự vương tiến phong.
Vương
vị lâm cư chính phủ lễ hữu đăng trật ứng gia phong mỹ tự khả gia phong đại
thánh linh ứng kiêm hòa thượng thiền sư tỷ khiêu tăng tự Huệ Tộ đặc tặng anh uy
hiển liệt từ quang phổ trạm trừng thông đại bồ tát cổ sắc.
Ngày 26 tháng 7 năm 1783 niên
hiệu Cảnh Hưng 44
Dịch
nghĩa:
“
Sắc đại thánh linh thiêng kiêm hòa thượng tỷ khưu thầy có tên chữ là Huệ Tộ nay
đặc biệt phong tặng uy linh lẫm liệt đại bồ tát tên tuổi sánh cùng non cao biển
rộng, chí khí khác lạ, tinh thần trong sáng, lời nói khoan thai, tấm lòng hướng
thiện, bản tính thông minh ngay thẳng, kết giao cùng trăm thần, một lòng hướng
về Tây phương, mọi việc đã qua nay thấy sự nghiệp của thầy sánh rõ có thể khen
tặng một cách vẻ vang.
Nay trẫm được lên ngôi, làm việc
ở nơi chính phủ làm lễ long trọng, tặng thưởng phẩm trật thấy sự linh thiêng
của thánh mà ban cho chữ đẹp. Nay phong thêm là đại thánh linh ứng kiêm hòa
thượng tỷ khưu thầy có tên chữ là Huệ Tộ đặc biệt phong tặng uy linh lẫm liệt
ánh sáng chiếu xuống khắp muôn dân, ngài là vị bồ tát của muôn dân. Nay ban
sắc”.
Ngày
26 tháng 7 năm 1783 niên hiệu Cảnh Hưng 44
Chùa
Cổ Nông được xây dựng từ thời Lê Sơ (1428 - 1527). Trong quá trình tu hành,
Thiền sư Bùi Huệ Tộ đã về trụ trì tại chùa một thời gian. Ngoài việc tuyên
truyền và giác ngộ đạo Phật, ông đã phát tâm kêu gọi nhân dân hưng công tu sửa,
mở mang xây dựng thêm cảnh chùa khang trang, to đẹp. Tương truyền, ngôi chùa
gồm 5 gian tiền đường, tam bảo, nhà tổ, gác chuông, tăng phòng. Toàn bộ công
trình được dựng bằng chất liệu gỗ lim, mái lợp ngói nam, nền lát gạch đỏ theo
phong cách kiến trúc truyền thống. Song do thời gian tồn tại lâu dài và tác
động của thiên nhiên nên công trình chùa cũ đã bị hư hại. Trong khuôn viên của
chùa chỉ tìm thấy một tấm bia (kích thước cao 1,80m; rộng 0,80m), tuy chữ đã mờ
hết nhưng qua hình dáng kích thước, hoạ tiết hoa văn trang trí, có thể đoán
định bia có niên đại thời Lê Trung Hưng (1533 - 1788).
Chùa
Cổ Nông được xây dựng trên một khu đất rộng hơn 5.000m2, nằm sát khu dân cư và
tỉnh lộ 487B, thuận tiện cho việc đi lại tham quan nghiên cứu di tích.
Chùa
được làm theo kiểu chữ “đinh”. Tiền đường gồm 5 gian, ba gian giữa lắp dựng hệ
thống cửa gỗ bức bàn chắc chắn, hai gian bên xây tường kín, trổ cửa thông gió
kiểu chữ phúc, nhằm tạo sự thông thoáng và mở rộng không gian thờ Phật. Mái của
toà tiền đường là bộ mái phẳng, lợp ngói nam, trên nóc xây đại bờ đắp lưỡng
long chầu nguyệt, chính giữa đắp nổi ba chữ Hán có nội dung: “Thiên Trúc
tự”(chùa Thiên Trúc). Hai cột đồng trụ góc phía ngoài tiền đường, trên đỉnh đắp
hoa sen, phía dưới nhấn nổi câu đối bằng chữ Hán với nội dung ca ngợi cảnh đẹp
của ngôi chùa. Nâng đỡ toàn bộ hệ thống mái của toà tiền đường là 4 bộ vì kết
cấu kiểu: Trốn cột, ván mê. Kết hợp với các vì kèo để nâng đỡ ngói lợp ở bên
trên là bộ hoành vuông mang phong cách thời
Nguyễn.
Toà
tam bảo gồm ba gian xây dọc làm giao mái bắt vần với tiền đường. Hai bộ vì kết
cấu kiểu: trốn cột, ván mê tương tự như tiền đường. bộ phận chịu lực chính là
bốn cột cái, đặt trên các chân tảng đá cổ bồng. Chính giữa tam bảo bài trí 6
lớp tượng phật với 19 pho tượng. Tất cả các pho tượng đều làm bằng chất liệu gỗ
và được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Cách một khoảng sân nhỏ liền kề phía sau
tam bảo là nhà tổ và phủ mẫu. Nhà tổ gồm 5 gian, phủ mẫu gồm 3 gian. Nhà tổ và
phủ mẫu là những công trình mới được phục dựng, kết cấu đơn giản theo kiểu
tường hồi bít đốc, vì kèo quá giang, mái lợp ngói nam, nền lát gạch đỏ. Có thể
nhận thấy, chùa Cổ Nông hiện nay bao gồm nhiều hạng mục kiến trúc, vừa có yếu
tố cổ, vừa có yếu tố tân đan xen, kết hợp hài hoà và bổ sung cho nhau tạo thành
một tổng thể kiến trúc quy mô và mang phong cách kiến trúc cổ truyền dân tộc.
Hàng
năm, dân làng Cổ Nông mở hội lớn trong 3 ngày: Mồng 9, 10, 11 tháng
giêng. Ngoài ra, vào các ngày sóc (mồng một) và vọng (15 âm lịch) hàng
tháng nhà chùa cho mở cửa đón nhân dân địa phương và khách thập phương đến hành
lễ.
Trong
những ngày diễn ra lễ hội, ngoài các nghi thức tế lễ còn có nhiều sinh hoạt văn
hoá, trò chơi dân gian đặc sắc như: đấu vật, đánh tổ tôm điếm, cờ người, đu
quay, chọi gà, kéo co, leo cầu phao, chạy việt dã... Đu quay là trò chơi thu
hút nhiều thanh niên tham gia, trước ngày mở hội, ban tổ chức cho trồng sẵn cây
đu để các đôi nam, nữ thì tài. Giải thưởng cho đội đạt giải nhất thường chỉ là
vài vuông lụa, những người được giải vẫn rất tự hào vì đã có dịp để thể hiện
tài năng và lòng dũng cảm của mình. Chọi gà là trò chơi được nhiều người hưởng
ứng, mê say. Những người chủ gà muốn có gà chọi dự thi thì phải lựa chọn, luyện
tập rất dày công theo những thủ thuật nhất định. Chọn gà trước hết là chọn
giống rồi mới đến tướng mạo theo quan điểm dân gian:
“Mình chông, mỏ quắp, cánh vỏ chai
Quản ngắn, đùi dài, chả sợ ai”.
Trò chơi chọi gà được tổ
chức tại một góc của sân chùa, có giải thưởng, luật lệ và ban giám khảo để phân
thắng bại trong những trường hợp phức tạp. Thông thường, gà chọi nào chạy trước
hoặc bị miếng đánh hiểm chết tại chỗ là thua cuộc.
Kéo
co diễn ra tại sân chùa, đây là trò chơi tập thể, thu hút đông người xem nhất.
Tất cả mọi người đều có thể tham dự, nhưng thông thường mỗi xóm đều tuyển chọn,
luyện tập một đội co của mình, đến khi làng mở hội, đội co sẽ tham dự với mong
muốn chiếm giải cao. Đội co không hạn chế số lượng người tham gia mà tuỳ tình
hình thực tế mỗi năm, ban tổ chức mới ra định lệ. Các xóm tham gia theo hình
thức thi đấu vòng tròn rồi tìm ra hai đội vào chung kết để chọn một đội đạt giải
nhất. Lễ hội truyền thống và những sinh hoạt văn hoá diễn ra tại di tích chùa
Cổ Nông không chỉ mang ý nghĩa tưởng nhớ công lao của Thiền sư Bùi Huệ Tộ mà
còn mang đậm những nét văn hoá dân gian đặc sắc ở một làng quê vùng Đồng bằng
châu thổ sông Hồng. Lễ hội đã thực sự thu hút đông đảo nhân dân trong làng và
các làng lân cận tham gia những sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng lành mạnh, nâng
cao tinh thần đoàn kết, xóa bỏ mặc cảm, giúp đỡ nhau trong cuộc sống và cùng
chung sức xây dựng quê hương ngày một đổi mới, giàu mạnh.
Chùa Cổ Nông ngoài thờ phật còn thờ Thiền sư Bùi Huệ Tộ
(1566 - 1641). Ông là một vị chân tu đã tiếp thu và truyền bá trong nhân dân
những tư tưởng Phật giáo tiến bộ về tính độc lập, tự chủ và nhân văn của Phật
giáo Thiền Tông thời Trần. Trong thời gian trụ trì tại chùa Cổ Nông, cùng với
việc truyền đạo, ông đã có công xây dựng, mở mang cảnh chùa, giúp nhân dân địa
phương ổn định đời sống, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Việc thờ tự
tại chùa Cổ Nông đã thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, sự biết ơn của nhân dân địa
phương đối với công lao của Thiên sư Bùi Huệ Tộ.
Trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chùa Cổ Nông
là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng góp phần vào thắng lợi
chung của dân tộc. Chùa là nơi tổ chức các lớp học bình dân học vụ, hội họp của
các tổ chức quần chúng thôn Cổ Nông, nơi nuôi dấu cán bộ, đào hầm và cất giữ
tài liệu bí mật, nơi tiễn đưa con em địa phương lên đường nhập ngũ. Đặc biệt
đầu năm 1947, tại ngôi chùa linh thiêng, chi bộ Đảng đầu tiên của thôn Cổ Nông
được thành lập do đồng chí Phạm Văn Thanh làm Bí thư.
Với những giá trị tiêu biểu về Lịch sử -
Văn hóa, chùa Cổ Nông được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh năm
2005.