Di tích lịch sử cấp Tỉnh Đền thờ 4 vị tướng Trần - Thôn Nho Lâm- xã Bình Minh, huyện Nam Trực
Nho Lâm nằm ở trung tâm xã Bình Minh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Theo
cuốn “Trần Gia thế phả quốc âm” (Gia phả dòng họ Trần viết bằng chữ Nôm) cùng
với truyền thuyết ở địa phương. Vào đời Hậu Lê (năm 1722) ở xã Trần Xá huyện
Nam Xang phủ Lý Nhân, nay thuộc xã Đức, Lý huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam có một người
họ Trần tên là Minh Đạt cùng vợ con lấy nghề làm ruộng để sinh sống. Vì không
chịu được cảnh thu thuế hà khắc của quan lại địa phương, ông Trần Minh Đạt đã
đưa vợ con xuống trại Hổ Lửa, xã Cổ Nông, huyện Nam Chân để định cư. Buổi đầu,
với hai bàn tay trắng không một tất đất cắm dùi, lại bị các thế lực phong kiến
chèn ép bao vây bốn mặt, ngụ cư với nơi nào cũng bị coi thường khinh miệt, bắt
phải làm phu phen tạp dịch không có quyền làm người. Trần Minh Đạt phải cùng vợ
con trú chân ở một khu miễu, hàng ngày phá cây, phát quang bờ bụi làm nhà để ở,
ông cùng vợ con kiên gan biền trí, nhẫn lại vượt qua muôn vàn chông gai thử
thách, bất công hà khắc, chống lại thiên tai, giặc giã, cần cù siêng năng, cần
kiệm xây dựng cơ nhiệp, dần dần hình thành nên một thôn nhỏ. Đến đời thứ tư,
ông Trần Tất Ninh (cháu bốn đời của cụ tổ Trần Minh Đạt) lấy vợ là con gái
Thiếu khanh họ Nguyễn ở thôn Hành Quần được thêm 14 mẫu đất thổ cư, thổ canh.
Cũng từ đó cơ nghiệp của họ Trần được mở rộng, lúc đầu vì chỉ là một thôn nhỏ
lại là dân từ nơi khác đến nên mảnh đất này không có tên gọi, khi thì nhập vào
xã Tang Trữ, lúc lại thuộc vào xã Đồng Qũy. Cho đến thời Gia Long nơi đây chính
thức gọi là thôn Nho Lâm . Cuối thời Nguyễn Nho Lâm trở thành đơn vị hành chính
xã thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Câu đối ở
cửa đền Nho Lâm có viết:
“Cửu
tộc gia tiên tương tụ tập
Thiên thu
thị thập phật nhiệm tiêu dao”
Dịch
nghĩa:
“Tôn thờ
chín họ gia tiên ở nơi đền miếu
Là Phật
ngàn năm siêu thoát mặc sức tiêu dao”
Theo cuốn gia phả họ Trần cùng sắc phong văn bia, câu đối tại đền Nho Lâm
và truyền thuyết địa phương thì các nhân vật thờ tại đền có lịch sử như sau:
Ông Trần Hoành, cháu thứ 6 của cụ tổ Trần Minh Đạt lấy vợ là Đỗ Thị Qúy,
sinh được 6 con trai và 2 con gái. Trong đó Trần Bá Giáp, Trần Bá Hai, Trần Bá
Ngọc đều tinh thông văn võ. Trần Bá Giáp còn có tài ném lao trăm phát trăm
trúng. Tuy giỏi võ, nhưng là dân ngụ cư, nên cả ba anh em không những không
được tham gia các cuộc thi võ, mà còn phải gánh vác mọi việc phu phen tạp dịch
phục vụ bọn quan lại, cường hào gian ác tại địa phương. Uất ức trước sự bất
công, ngang trái đó, nên ngay sau khi cha mẹ qua đời, ba anh em liền bỏ làng ra
đi tìm nơi đất tốt để lập nghiệp, nhờ giỏi võ nghệ nên khi vào đất Quy Nhơn,
Trần Bá Giáp được nhân dân địa phương yêu mến. Tại đây ông đã tổ chức dạy võ
cho mọi người, lấy nghề săn bắn, bẫy voi làm kế sinh nhai.
Năm 1771 Trần Bá Giáp tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân do 3 anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo chống lại chúa Nguyễn. Vốn là người
giỏi võ, lại có tài thuần dưỡng voi rừng nên chẳng bao lâu Ông trở thành một
tùy tướng thân cận của Nguyễn Huệ. Cũng vào năm ấy, vợ Ông sinh con trai đầu
lòng đặt tên là Trần Bá Dũng.
Còn Trần Bá Hai và Trần Bá Ngọc, khi lên kinh thành vì cuộc sống khó khăn
nên đã tham gia vào quân đội nhà Lê. Song triều đình nhà Lê đã đến thời mạt
vận. Hành động chạy sang Trung Quốc cầu cứu quân Thanh của vua Lê Chiêu Thống
vào năm 1787 đã gây sự bất bình phẫn lộ trong nhân dân. Khi quân Thanh kéo vào Thăng
Long, để đề phòng quân Tây Sơn tập kích ra Bắc, Tôn Sĩ Nghị sai vua Lê Chiêu
Thống lập một phòng tuyến ở xung quanh để bảo vệ kinh thành. Trong số binh lính
ở phòng tuyến bên ngoài đó, có hai anh em Trần Bá Hai và Trần Bá Ngọc.
Ngày 21 tháng 12 năm 1788, Nguyễn Huệ được tin cấp báo về tình hình
quân Thanh xâm lược nước ta. Tại Phú Xuân, ngay ngày hôm sau Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng, lấy hiệu là Quang Trung tức tốc tiến đại quân ra Bắc. Trong đại
quân hùng, đi theo Quang Trung có Trần Bá Giáp và con trai là Trần Bá Dũng khi
ấy tròn 18 tuổi. Từ đèo Tam Điệp vua Quang Trung phát lệnh xuất quân, tất cả
các đạo quân tức tốc lên đường, nhằm hướng Thăng Long thẳng tiến. Trong trận
công phá đồn Ngọc Hồi, Trần Bá Giáp đã lập công lớn, khi từ trên mình voi phóng
lao giết được tướng tiên phong của địch là Trương Triều Long.
Sáng mùng 5 tết Kỷ Dậu, đạo quân của đô đốc Đông đánh chiếm đồn Khương
Thượng. Trước sức mạnh như trẻ tre của quân Tây Sơn, một số quân của triều đình
tự tan vỡ chạy về quê quán. Số còn lại quay giáo phản chiến. Hai anh em Trần Bá
Giao và Trần Bá Ngọc đã vận động một số binh lính tổ chức lực lượng chống lại
quân Thanh. Sau đó Trần Bá Hai và Trần Bá Ngọc đã đưa số quân phản chiến đó
nhập vào quân đội của đô đốc Đông cùng tiến vào giải phóng Thăng Long. Trưa
mùng 5 Tết, Thăng Long sạch bóng quân xâm lược. Vua Quang Trung mặc áo bào sạm
mầu thuốc súng, cưỡi voi dẫn đại quân tiến vào kinh thành Thăng Long trước sự
hò reo, đón chào nồng nhiệt của nhân dân. Bốn tướng họ Trần, anh em, chú cháu
gặp nhau trong niềm vui chiến thắng. Trần Bá Hai và Trần Bá Ngọc xin vua Quang
Trung cho nhập vào đạo quân Trung Thành do Trần Bá Giáp chỉ huy. Do có
công lao đánh đuổi giặc Thanh xâm lược, nên 4 Tướng họ Trần đều được vua Quang
Trung phong chức ban thưởng như sau:
Uy liệt Tướng quân, Quán quân sứ đạo quân Trung Thành của tiền triều, tước
Giáp Ngọc hầu Trần Bá Giáp.
Cựu triều Tri sự Trần Bá Hai.
Cựu triều Phó hiệu úy, tước Ngọc đức tử Trần Bá Ngọc.
Cựu triều Phó hiệu úy Dũng đức tử Trần Bá Dũng.
Sắc phong niên hiệu Cảnh Thịnh 2 (1794) phong tặng cho Trần Bá Hai có nội
dung:
Dịch nghĩa:
“...Sắc cho Vệ úy Trần Bá Hai thuộc đạo quân Trung Thành người xã Đồng Qũy
huyện Nam Chân phủ Thiên Trường, sớm biết thời cuộc, hiểu rõ nghĩa lớn, hướng
theo chính đạo thỏa lòng gặp gỡ chốn Lonh thành, ứng với quẻ khôn hết sức theo
đòi nơi trướng hổ. Tôi hiền phò nước loạn, gian lao không chút tiếc thân mình,
có công với nước, tỏ rõ người tài năng, nên cần phong thưởng hậu, Vậy có thể
phong là Anh dũng tướng quân Trung úy Hai khoan tử, đem quân bản bộ theo để sai
khiến, nên tuân theo mệnh trên làm tròn chức trách”.
Không chỉ có công lao giúp vua Quang Trung đánh đuổi giặc Thanh xâm lược,
mà khi hoàn thành nghĩa vụ trong quân ngũ trở về quê hương các ông còn đóng góp
tiền của công sức của mình để xây dựng xóm, thôn ngày một ấm no. Sau này khi
các ông qua đời, con cháu trong dòng họ, cùng nhân dân địa phương đã dựng đền
thờ để bốn mùa hương khói phụng thờ và ghi nhớ công lao. Công lao của bốn vị
tướng được người đời lưu truyền như sau:
Lừng lẫy
Sơn Nam bốn Tướng Trần
Cả nhà
đánh Mãn, rạng công huân
Giương cao
ngọn giáo, phò vương quốc
Ra sức phò
vua, yên chín cõi
Phóng
ngược cây đao, diệt bạo tàn
Hết lòng
vì nước, cứu muôn dân
Công danh
sự nghiệp, đời nghi tạc
Lừng lẫy
Nho Lâm bốn tướng Trần.
Cùng với thờ bốn tướng họ Trần, đền Nho Lâm còn thờ Cao Sơn tướng quân của
Hùng Vương và Kiều Công Hãn, người có công giúp Ngô Quyền đánh thắng quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng. Theo truyền thuyết địa phương đây là hai vị Thành
hoàng được họ Trần thờ tại quê cũ. Khi cụ Trần Minh Đạt cùng con cháu về
định cư lập làng Nho Lâm đã cho rước hai bài vị đi theo. Tại đền có câu đối ghi
lại như sau:
“ Tứ tướng
anh linh phù xã tắc
Nhị thần
công tự bảo an dân”.
Nghĩa là:
“ Bốn
tướng anh hùng giữ gìn xã tắc
Hai thần
hợp sức giúp đỡ dân”.
Đền Nho Lâm được xây dựng trên một khu đất cao có diện tích 3.000m2 . Đền
được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, là tấm lòng tri ân công đức của nhân dân làng
Nho Lâm đối với bốn tướng họ Trần có công giúp vua Quang Trung đánh đuổi giặc
Thanh xâm lược.
Đền Nho Lâm làm theo kiểu chữ đinh. Tiền đường ba gian, trên nóc mái
xây đại bờ đắp lưỡng long chầu nguyệt mang phong cách thời Nguyễn, hai đầu hồi
có cột đồng trụ. Trên đỉnh đắp nghê chầu. phía dưới nhấn nổi câu đối bằng chữ
Hán. Sau tiền đường là gian chính tẩm làm kiểu chồng diêm hai tầng,
mái cong lợp ngói nam. Đầu đao ở các góc được cách điệu bằng họa tiết lá lật,
phần cổ diêm giữa hai lớp mái phía trước nhấn bốn chữ “Chính trung đại nghĩa”.
Đời sống văn hóa tinh thần của người dân Nho Lâm với những lễ hội, sinh
hoạt văn hóa dân gian mang đậm bản sắc văn hóa của dân cư nông nghiệp trồng lúa
nước. Hàng năm, vào dịp nông nhàn, ngày kỵ của các vị Thành hoàng làng, thần
linh và bốn vị tướng họ Trần, nhân dân đều tổ chức các sinh hoạt văn hóa, nghi
thức truyền thống, trong đó đặc biệt là lễ hội tưởng nhớ công lao của Thánh Cao
Sơn diễn ra vào các ngày 15 và 16 tháng 3 âm lịch; lễ hội tưởng niệm Thánh Long
Kiều diễn ra trong 2 ngày mùng 9 và mùng 10 tháng chạp. Hội làng không chỉ là
dịp để ôn lại công lao, tưởng nhớ các vị Thành hoàng mà còn là dịp để nhân dân
địa phương cùng “cộng cảm”, “cộng mệnh” đoàn kết cùng chung sức xây dựng quê
hương ngày một giàu đẹp văn minh.
Đền Nho Lâm còn bảo lưu,
gìn giữ được nhiều cổ vật, cổ thư như: Bia đá, sắc phong, đại tự, câu
đối...có giá trị tiêu biểu về lịch sử và văn hóa. Với những giá trị lịch sử và
kiến trúc nghệ thuật. Đền Nho Lâm được xếp hạng Di tích lịch sử- Văn hóa cấp
tỉnh năm 1997.